Tại Hội nghị Thúc đẩy các giải pháp tăng cường thúc đẩy giảm thiểu ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất các bên cùng nhau chọn thời điểm Tháng 11 Năm 2024 là điểm mốc, đánh dấu cho các hành động chung – các giải pháp phối hợp liên ngành – cam kết cho sự phối hợp và gắn kết giữa các cơ quan Trung ương và Địa phương trong giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí – một vấn đề ô nhiễm môi trường chung đang được dư luận hết sức quan tâm hiện nay.
“Cùng nhau hành động” với 05 nhóm giải pháp
Trên tinh thần “cùng nhau hành động” từ các ý kiện tại Hội nghị, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ ra một số nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Thứ nhất, về nhóm các giải pháp về thể chế chính sách, Bộ trưởng đề nghị các Bộ, ngành cần khẩn trương rà soát, tham mưu trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách tăng cường hiệu quả quản lý chất lượng không khí, trong đó, cần tập trung vào các chính sách về thuế bảo vệ môi trường, phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; chính sách cho vay, hỗ trợ, ưu đãi “chuyển đổi xanh”; chính sách ưu đãi, hỗ trợ (thuế nhập khẩu) đối với thiết bị, công nghệ xử lý, giảm thiểu phát sinh khí thải; chính sách ưu đãi hỗ trợ đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường được tái chế từ sản phẩm thu hồi như phụ phẩm nông nghiệp; quy chuẩn khí thải đối với các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ nhập khẩu và sản xuất trong nước…
Thứ hai, nhóm các giải pháp về kỹ thuật, Bộ trưởng đề nghị các cơ quan chuyên môn của Bộ Tài nguyên và Môi trường cần nhanh chóng hoàn thiện và vận hành hiệu quả cơ sở dữ liệu về nguồn thải, giám sát tự động các nguồn thải lớn và kết nối dữ liệu trực tuyến. Trên nguyên tắc chất lượng môi trường không khí phải được quan trắc, giám sát thường xuyên, liên tục và công bố công khai theo quy định của pháp luật.
“Bây giờ ô nhiễm môi trường không khí chúng ta có thể cảm nhận được, có thể quan sát được. Nhưng chính xác mức độ như thế nào? ở thành tố, thành phần nào và tác động đến đâu thì phải thông qua số liệu quan trắc, có phân tích, có tổng hợp để từ đó đưa ra các quyết định phù hợp” – Bộ trưởng Đỗ Đức Duy phân tích.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng đề nghị cần chuẩn hoá hệ thống quan trắc hiện có, trên cơ sở bổ sung thêm một số trạm quan trắc tự động đảm bảo số liệu được truyền, kết nối theo quy định về Sở TN&MT và Bộ TN&MT thường xuyên, liên tục và không bị gián đoạn; Tập trung triển khai Quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đồng thời, việc tính toán, công bố chỉ số chất lượng không khí xung quanh (AQI) cần được thực hiện nghiêm túc và kịp thời, nhằm công bố kết quả quan trắc chất lượng môi trường không khí theo quy định.
Thông qua Hội nghị, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị:
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, các chuyên gia, các nhà khoa học nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế ngay tình trạng phát sinh bụi từ hoạt động giao thông và xây dựng (được xác định là nhóm nguồn có nguy cơ gây ô nhiễm bụi PM 2.5 trong không khí cao nhất );
Bộ Giao thông vận tải sớm ban hành và áp dụng quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn khí thải phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; đẩy mạnh hoạt động chuyển đổi giao thông xanh, không phát thải; sử dụng nhiên liệu sạch, thân thiện với môi trường; khuyến khích sử dụng phương tiện giao thông công cộng.
Thứ ba, nhóm các giải pháp về quản lý, kiểm soát các nguồn thải di động, nguồn phân tán, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho rằng trách nhiệm thực thi nội dung này chủ yếu thuộc về chính quyền địa phương các cấp. Trong đó:
Đề nghị Sở TN&MT các địa phương kịp thời tham mưu cho UBND tỉnh, thành phố xây dựng, ban hành và triển khai hiệu quả kế hoạch kiểm soát chất lượng không khí. Tăng cường đầu tư các trạm quan trắc tự động về chất lượng không khí và thông tin kịp thời cho các cơ quan quản lý trung ương cũng như cho người dân.
Đồng thời, Sở TN&MT các địa phương kịp thời tham mưu cho UBND tỉnh, thành phố khẩn trương rà soát, đánh giá các cơ sở thuộc nhóm phát sinh khí thải lớn, từ đó, có lộ trình di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu vực đô thị, khu dân cư tập trung, đóng cửa các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường theo quy định của pháp luật. Kiện toàn tổ chức bộ máy nhân lực, quản lý nhà nước về môi trường nói chung trong đó có môi trường không khí và ban hành các kế hoạch hành động.
Đặc biệt, chính quyền địa phương phải tăng cường, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đốt phụ phẩm nông nghiệp, “đã đến lúc chúng ta cần xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các hành vi đốt phụ phẩm nông nghiệp, hành vi đốt rác thải đô thị, đốt các loại lá cây và sinh khối thực vật từ dọn dẹp vệ sinh đường phố một cách tùy tiện, gây ô nhiễm không khí.” – Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, đề nghị Bộ Xây dựng chỉ đạo tăng cường quản lý các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, yêu cầu tuân thủ quy định pháp luật về bảo vệ môi trường đối với hoạt động xả thải; chỉ đạo các địa phương tăng cường kiểm tra, thanh tra hoạt động xây dựng tại các đô thị lớn.
Đề nghị Bộ Công an chỉ đạo kiểm soát và xử lý nghiêm các phương tiện vận chuyển vật liệu xây dựng trong trung tâm thành phố, khu vực tập trung đông dân cư bảo đảm không để tình trạng rơi vãi vật liệu xây dựng, phát tán ra môi trường.
Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu để ban hành và hướng dẫn thực hiện các giải pháp, biện pháp kỹ thuật bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt nhóm đối tượng nhạy cảm về hô hấp (người già, trẻ em, người có bệnh…).
Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo, yêu cầu các cơ sở sản xuất công nghiệp, đặc biệt là các cơ sở phát sinh bụi, khí thải lớn thực hiện nghiêm các biện pháp quan trắc khí thải tại nguồn; kiểm soát, xử lý bụi và khí thải đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường trước khi xả thải; Đồng thời, Bộ sẽ tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở thuộc đối tượng phải lắp đặt quan trắc khí thải tự động và truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường theo quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thứ tư, nhóm các giải pháp về truyền thông, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các cơ quan báo chí, truyền thông phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ ngành địa phương cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác tới người dân để chủ động ứng phó, hạn chế ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến sức khoẻ và phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương và cả nước.
Thứ năm, nhóm các giải pháp về nguồn lực, đề nghị các địa phương quan tâm, đầu tư nguồn lực cho kiểm soát ô nhiễm các nguồn thải tác động đến chất lượng môi trường không khí, bổ sung diện tích cây xanh – mặt nước, tăng cường vệ sinh đường phố … giảm thiểu phát tán ra môi trường. Về lâu dài, cần có đề án chuyển đổi hệ thống giao thông xanh, phát triển giao thông công cộng với lộ trình thực hiện sớm nhất.
Với các địa phương, Bộ trưởng đề nghị với những sáng kiến hay, mô hình hiệu quả, rất cần được khuyến khích triển khai, nhân rộng. Nhân Hội nghị này, Bộ Tài nguyên và Môi trường kêu gọi các doanh nghiệp, các Tập đoàn kinh tế lớn, các tổ chức trong nước và quốc tế, cùng chung tay góp sức, tìm kiếm và triển khai các sáng kiến và triển khai các sáng kiến, thí điểm các “giải pháp xanh” áp dụng cho khu vực nội đô thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chia sẻ tại Hội nghị cũng có một số ý quý giá của các chuyên gia nhà khoa học:
TS Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam:
Vấn đề quản lý chất lượng không khí, kiểm soát các nguồn thải đã được đặt ra từ Luật Bảo vệ Môi trường ( BVMT) năm 1993 và liên tục được bổ sung cập nhật vào các năm 2005, 2014 và gần đây nhất là Luật BVMT 2024 với các quy định về đánh giá tác động môi trường (ĐTM), tiêu chuẩn/quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh, quy chuẩn phát thải, quan trắc định kỳ/tự động, kế hoạch bảo vệ môi trường, giấy phép môi trường, thanh tra kiểm trav.v… Về tổ chức, ngày càng hoàn thiện với các cơ quan bảo vệ môi trường từ cấp trung ương tới tỉnh, quận huyện. Nhiều vấn đề đã đượcphát hiện ra, nhiều biện pháp cùng các ngành giải quyết nhằm phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm không khí đối với các nguồn thải.
Tuy nhiên chất lượng không khí đặc biệt tại một số đô thị lớn ngày càng suy giảm, nhiều ngày trong năm có nồng độ PM2.5 gấp nhiều lần quy chuẩn cho phép, đặc biệt là các đô thị ở phía Bắc vào những tháng mùa đông. Ngoài 4 mùa Xuân-Hạ-Thu -Đông, người ta đã nói đến “mùa ô nhiễm”.
Rõ ràng là chúng ta kiểm soát các nguồn ô nhiễm ngày chưa tốt. Ô nhiễm môi trường nói chung và không khí nói riêng dường như vẫn là việc riêng của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) ở cấp TW, ở địa phương thì cùng lắm là cấp tỉnh chứ không phải việc của quận/huyện ? Vậy làm thế nào để cải thiện chất lượng môi trường không khí ? tiếp tục làm như cũ hay có cách gì mới để phát hiện và tháo gỡ “điểm nghẽn” để giải quyết một cách hiệu quả, một mặt quản lý chặt chẽ mặt khác tạo môi trường thuận lợi cho kiến tạo phát triển.
Một số bối cảnh trong thời gian tới cần được chú ý:
Kinh tế phát triển Việt Nam cất cánh, sẽ có nhiều ngành công nghiệp mới phát triển, nhiều chất ô nhiễm mới xuất hiện. Các công nghệ xử lý khí thải ngày càng hiệu quả.
Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh là con đường phải đi của Việt nam. Hậu kiểm thay vì tiền kiểm trong quản lý để tăng cường trách nhiệm của các bên liên quan.
Yêu cầu phân cấp, phân quyền đòi hỏi phải hoàn thiện khung pháp lý với đầy đủ các quy định hướng dẫn cụ thể.
Ông Phạm Hồng Lĩnh, Nguyên Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Khí Việt Nam, Hiệp hội Nhà sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường đề xuất giải pháp cần giải quyết “gốc rễ từ nguồn phát thải”:
Để thực hiện hiệu quả các giải pháp kiểm soát ô nhiễm không khí, chúng ta phải xây dựng một hệ thống các chính sách khuyến khích kinh tế môi trường , bằng cách hỗ trợ tài chính để thực hiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm tại các Đô thị từ các nguồn phát thải Bụi mịn, khí độc hại thông qua các chính sách về trợ cấp, phí, ưu đãi và giá cả. Đồng thời phải có lộ trình thực hiện trong Ngắn hạn, Trung hạn.
Các giải pháp ngắn hạn: Thực hiện trong năm 2025
1. Hiện tại, để các cấp thẩm quyền Phê duyệt dự án Đầu tư Xây dựng, Giao thông, nhà máy, kinh doanh chợ, siêu thị, nhà hàng… đều phải lập Hồ sơ Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và PCCC. Trong khi PCCC có bộ Tiêu chuẩn rõ ràng, chi tiết và yêu cầu có Hồ sơ thiết kế, dự toán PCCC thì DTM chưa có , chỉ nêu Biện pháp giảm thiểu bụi, tiếng ồn, phương án vận chuyển chất thải rắn…và hầu như các biện pháp, phương án này có nội dung gần như nhau, thiếu cụ thể, chi tiết theo công nghệ và yêu cầu kỹ thuật của từng dự án. Do đó Nhà Đầu tư, Chủ Thầu thi công tại các Khu Đô thị Phải lập Hồ sơ Thiết kế-Dự toán về Giảm thiểu ô nhiểm không khí ( như PCCC) cùng với ĐTM trình các cấp thẩm quyền phê duyệt. Giải pháp này thuộc nhóm Kiểm soát và giảm thiểu bụi mịn.
2. Trong các tiêu chí Bảng điểm đánh giá Hồ sơ dự thầu với các dự án nguồn Ngân sách nhà nước có mục giảm chi phí dự thầu tư 2 -3 % giá trị gói thầu (thường gọi là chi phí tiết kiệm) để xét thầu đã được hầu hết các nhà thầutham gia đấu thầu thực hiện. Chúng tôi đề nghị cấp có thẩm quyền có thông tư yêu cầu, ưu tiên trong tiêu chuẩn xét thầu các Hồ sơ dự thầu các dự án từ các nguồn vốn thêm khoản giảm từ 1-2% chi phí gí thầu chuyển vào Quỹ bảo vệ Môi trường Không khí của Chính quyền quản lý Khu đô thị. Giải pháp này thuộc nhóm Chính sách kinh tế môi trường.
Các giải pháp trung hạn: Thực hiện trong giai đoạn từ 2025 – 2030.
1.Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí khu vực Lòng lề đường nội Đô. Đây là khu vực “mặt tiền” văn minh, văn hoá của Thủ đô, hiện trạng khu vực này này là vấn đề nhức nhối vì môi trường ô nhiễm không khí bởi đào bới tu sửa, xe cộ các loại đi lại đông đúc, “mạnh ai nấy đi”, hàng quán rác thải có quét dọn nhưng vẫn còn vương vãi. Với các dự án Làm mới, tu sửa Vĩa hè, lòng lề đường Hồ sơ lập, đấu thầu phải có Thiết kế-Dự toán Biện pháp thi công nêu rõ quy trình thực hiện có phương án tưới rửa bụi mịn, thời gian thực hiện vào ban đêm từ sau 10 giờ tối khi người và phương tiện tham gia giao thông không nhiều. Để khuyến khích và bù đắp thiệt hại của nhà thầu cần tài trợ 15% – 20 % chi phí thực hiện từ Quỹ Bảo vệ môi trường.
2. Rác thải từ các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs) từ rác thải sinh hoạt tại các bãi tập kết, các thùng rác : rác phân huỷ ngấm nước sau cơn mưa sẽ bốc mùi hôi khó chịu phát tán vào bầu không khí đô thị. Dự án “ Rác Không chạm đất” đang thực hiện hiệu quả tại Đài Loan Trung Quốc. Đề xuất nghiên cứu áp dụng và phát triển Dự án “ Rác Không chạm đất” tại các khu Đô thị Việt Nam.
3. Ô nhiễm không khí từ giao thông Nội đô: Để kiểm soát nghiêm ngặt và giảm phát thải từ các phương tiện giao thông hạng nhẹ chạy xăng đề xuất Lập và phát triển Dự án: Phương tiện cá nhân : Sử dụng Xe đạp và xe đạp, xe máy điện từng bước thay thế xe máy chạy xăng. Để khuyến khích việc thay thế các xe máy chạy xăng và khuến khích sử dụng xe đạptiêu thụ , chúng ta phải tạo ra các khoản trợ cấp Tài chính cho việc sử dụng xe đạp, xe đạp điện, loại bỏ xe máy cũ phát thải cao bằng xe máy điện. Các giải pháp này thuộc nhóm các dự án giảm thiểu Khí độc hại và cần có thời gian, lộ trình để nghiên cứu, khảo sát, lập dự án song song với tuyên truyền vận động mới đảm bảo tính khả thi của Dự án.
Còn tiếp:…