110 cơ sở sản xuất đầu tiên được thí điểm
Sáng 24/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo về việc phê duyệt tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho năm 2025-2026.
Trong danh mục các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại Quyết định số 13 của Thủ tướng Chính phủ có 110 cơ sở (34 nhà máy nhiệt điện, 25 cơ sở sản xuất sắt thép, 51 cơ sở sản xuất xi măng) đủ điều kiện để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép thí điểm phân bổ hạn ngạch.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, việc giao hạn ngạch và triển khai thực tế sẽ tạo ra áp lực thay đổi cho doanh nghiệp, không chỉ giảm ô nhiễm, giảm khí nhà kính góp phần thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến và hoàn thiện các biện pháp quản trị, nâng cao năng lực sản xuất và bảo vệ môi trường tốt hơn.
Cùng với đó, chính sách phải hoàn chỉnh, cho phép những đơn vị cắt giảm tốt có quyền bán, thương mại hóa hoặc trao đổi phần hạn ngạch dư thừa cho các đơn vị khác, hướng tới xây dựng cơ chế thị trường để biến việc giảm phát thải thành nguồn lực.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo về việc phê duyệt tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho năm 2025-2026
Ông lưu ý, đây là lần đầu tiên Việt Nam thực hiện phân bổ hạn ngạch phát thải. Dù mang tính chất thí điểm để làm quen với việc kiểm soát phát thải, nhưng thực hiện phải nghiêm túc, quy định pháp lý rõ ràng, tránh hình thức.
Lãnh đạo Chính phủ nhấn mạnh rằng giao rồi là phải quản lý, kiểm tra, giám sát. Đưa ra chỉ tiêu thì phải có đo đếm, kiểm kê, báo cáo, dựa trên số liệu khoa học để đáp ứng yêu cầu kiểm kê của quốc tế.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất, tổng lượng hạn ngạch phân bổ cho các nhà máy nhiệt điện thấp hơn 1,6-2,0% so với tổng lượng phát thải dự kiến của các nhà máy này trong năm 2025-2026.
Tổng lượng hạn ngạch phân bổ cho các cơ sở sản xuất sắt thép (thép thô) thấp hơn 3,8-4,4% so với tổng lượng phát thải dự kiến của các cơ sở này trong năm 2025-2026.
Tổng lượng hạn ngạch phân bổ cho các cơ sở sản xuất xi măng thấp hơn 4,0-4,5% so với tổng lượng phát thải dự kiến của các cơ sở này trong năm 2025-2026.
Hoàn thiện cơ chế quản lý để áp dụng trên toàn quốc từ năm 2028
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân kiến nghị rà soát, đánh giá phương thức xác định và phân bổ hạn ngạch phát thải, trong đó cần tính đến thực tế sản xuất, khác biệt về công nghệ, thiết bị và nguyên liệu giữa các cơ sở, mức độ.
Đồng thời, cần có cơ chế đo đạc, kiểm tra độc lập để bảo đảm số liệu phát thải trung thực, vì các bộ quản lý chuyên ngành chỉ có thể thẩm định quy trình chứ không thể xác nhận chính xác các con số do doanh nghiệp tự báo cáo.
Đại diện các tập đoàn năng lượng, than – khoáng sản, xi măng, vật liệu xây dựng… cho rằng việc triển khai phân bổ hạn ngạch phát thải cần bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu giảm phát thải và duy trì động lực tăng trưởng.
Các doanh nghiệp kiến nghị chuyển phương pháp giao hạn ngạch từ cách tiếp cận tuyệt đối sang định mức phát thải trên một đơn vị sản phẩm, nhằm tránh kìm hãm các doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất và khuyến khích đầu tư công nghệ sạch.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp mong muốn được áp dụng cơ chế điều phối hạn ngạch linh hoạt trong nội bộ, đồng thời sớm vận hành thị trường tín chỉ carbon minh bạch.
Ông Đinh Quốc Thái, Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam cho rằng, quan trọng nhất là phải hoàn thiện bộ công cụ đo đếm, thẩm định minh bạch theo chuẩn quốc tế trước khi áp dụng đại trà.
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Phạm Mạnh Cường nêu rõ, vấn đề then chốt là lựa chọn phương pháp tính toán phù hợp, thống nhất giữa giai đoạn thí điểm và chính thức. Bên cạnh đó, cần sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý, nhất là chế tài xử phạt và quy định kiểm kê, bảo đảm sự thống nhất giữa số liệu hạn ngạch, báo cáo NDC và đề án thị trường tín chỉ carbon.

Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thí điểm phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính như là bước đệm quan trọng để hoàn thiện cơ chế quản lý trước khi áp dụng bắt buộc trên phạm vi toàn quốc.
Phó Thủ tướng yêu cầu trong quá trình thí điểm phải tính toán cụ thể hạn ngạch cho từng lĩnh vực (xi măng, thép, điện…), xác định rõ quy mô doanh nghiệp đưa vào thí điểm, để rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho việc triển khai trên 100% các đối tượng phát thải sau này.
Đáng chú ý, việc thí điểm không chỉ dừng lại ở con số hạn ngạch mà là quá trình hoàn thiện đồng bộ từ phương pháp đo đạc, kiểm đếm, thống kê, báo cáo, thẩm định đến các vấn đề pháp lý và kỹ thuật.
Các phương pháp này phải dựa trên cơ sở khoa học chắc chắn, phù hợp với chuẩn mực quốc tế (như Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu – UNFCC) để đảm bảo số liệu được quốc tế thừa nhận. Điều này gắn liền với trách nhiệm và cam kết của Việt Nam trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).
Về thẩm quyền, Phó Thủ tướng thống nhất phương án ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường quyết định xác định tổng hạn ngạch cho các lĩnh vực được thí điểm; chịu trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành, Hiệp hội liên quan để phân bổ hạn ngạch cụ thể đến từng lĩnh vực và lựa chọn doanh nghiệp tham gia thí điểm.
Lãnh đạo Chính phủ yêu cầu việc phân bổ phải đảm bảo tính khoa học, khách quan, minh bạch và công bằng. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đóng vai trò “trọng tài” về phương pháp và cách thức xác định, kiểm tra việc thực hiện phân bổ hạn ngạch. Các doanh nghiệp tham gia thí điểm phải tự tính toán, thuê chuyên gia đánh giá và có đơn vị độc lập đo đạc, chứng nhận số liệu báo cáo.
Về lộ trình thực hiện, Phó Thủ tướng chỉ đạo giai đoạn từ nay đến năm 2027 sẽ tập trung thí điểm để hoàn thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách. Từ năm 2028, việc quản lý hạn ngạch phát thải sẽ được triển khai chính thức và bắt buộc trên phạm vi toàn quốc đối với tất cả các lĩnh vực, doanh nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường phải công bố công khai lộ trình này ngay từ bây giờ để doanh nghiệp biết và chủ động chuẩn bị, tránh tình trạng bị động khi áp dụng chính thức; rà soát và bổ sung các quy định pháp lý về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Đặc biệt, cần bổ sung các chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm, gian lận số liệu, cũng như các công cụ kinh tế để khuyến khích giảm phát thải, “chỉ khi hình thành được thị trường trao đổi tín chỉ và hạn ngạch, có cơ chế mua bán rõ ràng, doanh nghiệp mới thực sự có động lực tham gia”.