Năng lượng hạt nhân – một giải pháp trung gian quan trọng
Trong hiện tại, chúng ta đang bận tâm ngày càng nhiều đến một cuộc khủng hoảng khí hậu, mối lo ngại cấp bách này đang được gióng lên nhiều hồi chuông khi tình trạng thời tiết cực đoan xảy ra ngày một nhiều đi kèm với mực nước biển dâng do băng tan. Trong đó nhiên liệu hóa thạch được xem là nguyên nhân căn bản cho tình trạng này, vì hoạt động đốt cháy chúng thải các loại khí nhà kính vào bầu khí quyển. May thay, chúng ta đã có một vị cứu tinh tạm thời, đó là năng lượng hạt nhân. Đây là giải pháp thay thế cho nhiên liệu hóa thạch thường được nhắc tới. Song điều gì cũng có tính hai mặt, năng lượng hạt nhân lại đi kèm với vấn đề liên quan đến chất thải hạt nhân. Vấn đề về chất thải hạt nhân là nguyên nhân chính khiến nó bị lên án kịch liệt bởi các tổ chức hoạt động vì môi trường và ở nhiều quốc gia. Ở đây, bài này giải thích một số giải pháp xử lý và đưa vấn đề vào góc nhìn tổng thể, để thấy rằng mọi chuyện không tệ đến vậy. Và việc bãi bỏ hoàn toàn năng lượng hạt nhân để thay thế bằng năng lượng xanh là việc làm không thực tế, ít nhất là trong hiện tại.
Tính đến năm 2019, các nhà máy điện hạt nhân hoạt động ở 30 quốc gia. Sáu quốc gia đã cấm hoàn toàn việc sử dụng lò phản ứng hạt nhân để sản xuất điện.
Nhiên liệu hạt nhân giải phóng lượng năng lượng trên mỗi gam hơn nhiều lần so với nhiên liệu hóa thạch. Tất nhiên các nhà máy hạt nhân không thải ra carbon dioxide khi chúng hoạt động.
Với cuộc khủng hoảng khí hậu đang diễn ra, người ta mong muốn tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế cho nhiên liệu hóa thạch vốn nặng về carbon, hãy nhìn vào các loại khí nhà kính tiêu biểu như CO₂, CH₄ và Clorofluorocarbon (CFC), chúng đều là các hợp chất của carbon. Một giải pháp thay thế trung gian là phân hạch hạt nhân, trên con đường tiến tới năng lượng xanh. Nhưng chúng ta đã thấy người ta phản đối gay gắt năng lượng hạt nhân, họ chỉ ra những vụ tai nạn nổi tiếng, chẳng hạn như các sự cố nghiêm trọng ở Chernobyl (1986) và Fukushima (2011), và vấn đề chất thải phóng xạ mà các cơ sở hạt nhân tạo ra. Các rủi ro tiềm tàng cho sức khỏe về nguồn thực phẩm, hải sản bị nhiễm xạ cũng được nêu ra. Vậy làm cách nào để chúng ta xử lý chất thải một cách an toàn?

“Quan tài” bê tông ở nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (trái) và khu chứa nước nhiễm xạ của nhà máy điện hạt nhân Fukushima (phải), gồm một triệu tấn nước thải đã xử lý được lưu giữ trong các bể chứa. Vì không có thêm chỗ chứa, Nhật Bản cho biết họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xả dần nước ra biển. Ảnh: National Geographic.
Chất thải hạt nhân là gì?
Nhiên liệu hạt nhân thường được làm từ uranium (U) được làm giàu từ 3% đến 5%. Những con số này có nghĩa là 3% đến 5% khối lượng của nó là uranium-235. U-235 là hạt nhân duy nhất tồn tại trong tự nhiên có khả năng phân hạch bằng neutron nhiệt, điều này là cần thiết vì U-235 dễ bị phân tách hơn trong phản ứng phân hạch hơn nhiều so với U-238. “Làm giàu” dùng để chỉ uranium trong đó tỷ lệ đồng vị U-235, đã được tăng lên hoặc “làm giàu” vượt quá mức tự nhiên của nó là khoảng 0.7%. Uranium được làm giàu là thành phần quan trọng cho cả sản xuất điện hạt nhân dân sự và cả vũ khí hạt nhân quân sự. Nhiên liệu này làm thành các thanh nhiên liệu (fuel rods), cần phân biệt với thanh điều khiển (control rods) dùng để kiểm soát nhịp độ phản ứng trong lò. Hạt nhân uranium-235 không ổn định; khi bắn neutron vào chúng bên trong lò phản ứng hạt nhân, thì chúng sẽ phân tách thành các hạt nhân nhỏ hơn, bao gồm Strontium-90 và Cesium-137.
Sơ đồ một cách bố trí thanh nhiên liệu, do các viên nhiên liệu Uranium xếp chồng thành. Ảnh: Deep Isolation.
Tất cả các đồng vị phóng xạ đều có một đặc tính được gọi là chu kỳ bán rã. Đây là thời gian cần thiết để số hạt nhân trong một mẫu đồng vị nhất định giảm đi một nửa. Chu kỳ bán rã càng dài thì đồng vị phóng xạ càng tồn tại dai dẳng hơn. Các đồng vị có chu kỳ bán rã dài hơn 30 năm được gọi là đồng vị tồn tại lâu dài và những đồng vị có chu kỳ bán rã dưới 30 năm được gọi là đồng vị tồn tại trong thời gian ngắn.
Đối với Cobalt-60, vốn có chu kỳ bán rã khá ngắn là 5.27 năm, thì 50% lượng Co-60 còn lại sau 5.27 năm (một chu kỳ bán rã), 25% còn lại sau 10.54 năm (hai chu kỳ bán rã), 12.5% còn lại sau 15.81 năm (ba chu kỳ), v.v… Ảnh: Chem Libretexts.
Strontium-90 và Caesium-137 đều có chu kỳ bán rã trung bình khoảng 30 năm. Chúng sẽ gây ra nhiều vấn đề nếu thải ra môi trường. Cesium-137 dễ dàng phát tán trong tự nhiên do khả năng hòa tan (tính tan) của các hợp chất Cesium, trong khi Strontium-90 khó phát tán hơn nhưng lại dễ bị thâm nhập vào xương và tủy xương nếu sinh vật ăn vào. Cả hai đều có tính phóng xạ cao và là các nguồn phóng xạ chính trong vùng cách ly Chernobyl.
Những chất này và nhiều đồng vị khác được tìm thấy trong chất thải phóng xạ. Chất thải thường được chia thành ba loại khác nhau, tương ứng với độ phóng xạ của nó: Chất thải mức độ thấp (LLW), Chất thải mức độ trung bình (ILW) và Chất thải mức độ cao (HLW). Những loại chất thải này được xử lý theo nhiều cách khác nhau, dựa trên mức độ nguy hiểm do tính phóng xạ của chúng gây ra.
Khoảng 3% nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng bao gồm các sản phẩm phân hạch phóng xạ. Ở một số nước, nhiên liệu đã qua sử dụng được tái xử lý để tách chất thải khỏi uranium và plutonium.
Quảng cáo

Chất thải phóng xạ chứa các đồng vị không ổn định của các nguyên tố, chúng phân rã và phát ra bức xạ alpha, beta hoặc gamma. Cuối cùng chúng phân hủy thành các nguyên tố không phóng xạ. Chất thải hạt nhân trước hết tạo ra mức độ phóng xạ, ngoài ra nó còn tạo ra nhiệt khi các đồng vị phân rã. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cho việc lưu trữ và xử lý.
Các loại chất thải hạt nhân
Chất thải được coi là mức độ thấp (LLW, hay Low Level Waste) nếu nó có hoạt động alpha không quá 4 GBq trên mỗi tấn (4 Gigabecquerel/tấn, hay 4 tỷ lần phân rã mỗi giây trên mỗi tấn vật thể, với 1 Bq là một lần phân rã mỗi giây và 1 Gbq = 1 tỷ Bq) hoặc không quá 12 GBq trên mỗi tấn đối với hoạt động beta hoặc gamma. Hầu hết chất thải hạt nhân được tạo ra (khoảng 90% theo khối lượng) là chất thải ở mức độ thấp, nhưng chúng chỉ chiếm 1% tổng tính phóng xạ của toàn bộ chất thải phóng xạ.
Hoạt động alpha là việc hạt nhân nguyên tử không ổn định sẽ mất năng lượng do phát ra các hạt alpha. Mỗi hạt alpha bao gồm hai proton và hai neutron, tương đương với hạt nhân Helium-4. Hoạt động alpha là số lượng hạt alpha phát ra từ một chất phóng xạ trong một khoảng thời gian cụ thể. Còn hoạt động beta là một quá trình phân rã phóng xạ trong đó một electron hoặc positron năng lượng cao, tốc độ cao, gọi là hạt beta, được phát ra bởi hạt nhân nguyên tử. Hạt beta chỉ là các electron từ hạt nhân và có phạm vi thâm nhập lớn hơn hạt alpha, nhưng vẫn nhỏ hơn nhiều so với tia gamma.
Tia gamma có thể bị chặn lại bởi một lượng chì nhất định, vì vậy có thể dùng bê tông và lượng đất đá đủ dày là đảm bảo ngăn cách được các chất thải hạt nhân mức độ nguy hại nhất. Ảnh: Chem Libretexts.
Hoạt động gamma, hay sự phát tia gamma trong quá trình phân rã phóng xạ phát ra loại tia có khả năng xuyên thấu cao và có thể dễ dàng xuyên qua các rào cản vốn có thể ngăn chặn các hạt alpha và beta, chẳng hạn như da và quần áo. Phân rã gamma là sự phát ra bức xạ điện từ có tần số cực cao, tỏa ra năng lượng dư thừa nhằm làm ổn định hạt nhân không ổn định.
Các thùng chứa chất thải phóng xạ mức độ thấp của Viện Công nghệ hạt nhân Thái Lan (TINT). Ảnh: Wikipedia.

LLW được định nghĩa là có hoạt tính alpha không vượt quá 4 gigabecquerels mỗi tấn (GBq/t) hoặc không vượt quá 12 GBq/t hoạt tính beta-gamma.ILW (Chất thải mức độ trung bình, hay Intermediate Level Waste) chiếm khoảng 7% tổng lượng chất thải hạt nhân và 4% tổng tính chất phóng xạ. Nó có tính phóng xạ quá cao để được coi là LLW, nhưng không tạo ra đủ nhiệt để được coi là HLW. Những thứ ở gần các nguồn phóng xạ và do đó có mức độ ô nhiễm cao thường được phân loại là HLW. Chúng bao gồm các thanh điều khiển, các bộ phận của lò phản ứng và bùn hóa học từ quá trình xử lý chất thải phóng xạ dạng lỏng.
Có thể thấy chất thải ILW đúng như cái tên của nó (trung gian), không phải là các vật dụng thường gặp như giẻ lau, ống nghiệm hay quần áo như LLW, những thứ vốn nằm “cách xa” các viên nhiên liệu, cũng không phải là bản thân nhiên liệu đã qua sử dụng như HLW mà nó là tất cả những thứ “tiếp xúc gần” với nhiên liệu. Vì các khoảng cách tiếp xúc khác nhau, chúng đòi hỏi phải có những cách xử lý khác nhau.

ILW tạo ra nhiều bức xạ hơn LLW nhưng không tạo ra nhiều nhiệt như HLW. Điển hình nhất là tấm ốp (vỏ bọc) nhiên liệu bằng kim loại, bộ phận không may nằm gần nhất với các viên nhiên liệu.HLW (Chất thải mức độ cao, hay High Level Waste) có độ phóng xạ đủ cao đến nỗi có thể làm tăng đáng kể nhiệt độ của chính nó. Điều này phải được xem xét khi thiết kế các cơ sở để xử lý nó. HLW được tạo ra như một sản phẩm phụ từ quá trình tái xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng và thường ở dạng lỏng. Chất này chiếm chưa tới 1% tổng khối lượng chất thải, nhưng lại chiếm tới 95% tổng tính phóng xạ.
HLW được định nghĩa là tạo ra hơn 2 kilowatt trên mét khối nhiệt do tính phóng xạ của nó. Nó đòi hỏi phải được che chắn trong quá trình vận chuyển và làm mát trước khi thải bỏ vĩnh viễn. Nó bao gồm nhiên liệu đã qua sử dụng và chất thải được phân loại.
Biểu đồ cơ cấu của ba loại chất thải hạt nhân. Ảnh: Environtmentbuddy.
Hoạt động lưu trữ và xử lý (chôn lấp) chất thải
LLW là chất thải dễ xử lý nhất. Chất thải được nén vào các thùng thép lớn. Đống thùng này sẽ được gửi đến bãi chôn lấp nếu chúng có độ phóng xạ đủ thấp hoặc được xử lý bằng cách lưu trữ chúng trong các hầm bê tông lớn dưới lòng đất. Cách làm thứ hai được gọi là chôn lấp gần bề mặt. Khi những hầm này đã đầy ngập, chúng liền được niêm phong, phủ lên lớp đất mặt và bỏ ở đó. Sẽ không bao giờ có nỗ lực nhằm thu hồi bất kỳ lượng chất thải nào do bản chất phóng xạ của nó, và việc thiết kế các địa điểm đảm bảo rằng chất thải có thể được bỏ lại mà không có lượng bức xạ đáng kể nào chạm tới bề mặt.
Hoạt động loại bỏ 1,146 mét khối đất bị ô nhiễm chất thải hạt nhân ở mức cực thấp khỏi Nhà máy điện hạt nhân Fort Greely cũ, bang Alaska. Ảnh: Wikipedia.
Những địa điểm này đôi khi có các lỗ thông hơi và hệ thống thoát nước để ngăn chặn áp lực tích tụ trong đó và ngăn ngừa bất kỳ sự rò rỉ nào từ việc tập trung chất thải trong hầm. Một lượng rất nhỏ LLW không thể được xử lý trong các hầm này. Điều này có thể là do những hạn chế của địa điểm về số lượng các loại hạt nhân phóng xạ khác nhau, do địa điểm này quá gần với giới hạn bức xạ của nó hoặc do LLW quá khó tách khỏi bất kỳ lượng chất ILW có liên quan nào. Trong những trường hợp này, chúng phải được xử lý dưới dạng ILW hoặc HLW.
Chất phóng xạ mức độ thấp thường được nén thành các hộp thép và chứa trong hầm bê tông dưới lòng đất. Khi đầy, hầm được niêm phong, đậy nắp và để lại đó. Lớp bê tông này đảm bảo không có bức xạ đáng kể nào chạm tới bề mặt.
Cả ILW và HLW cuối cùng đều được xử lý theo những cách giống nhau. Tuy nhiên, chúng đi những con đường hơi khác nhau để tới được đó.
ILW được nén chặt vào các thùng thép lớn, sau đó đổ đầy bê tông để cố định các chất bên trong. Những thùng chứa này giúp vận chuyển và lưu trữ chất thải một cách an toàn, thường là trong kho chứa khô ráo có máy điều hòa, cho đến khi có một cơ sở chôn lấp phù hợp. Một số ILW tồn tại lâu dài có thể được bảo quản khô trong thời gian tới 50 năm để nồng độ phóng xạ giảm.
Các tùy chọn lưu trữ nhiên liệu hạt nhân. Việc thải bỏ nhiên liệu hạt nhân có thể có nhiều hình thức (ngay bên trên hoặc gần mặt đất, hoặc ở các kho sâu trong tầng địa chất), mỗi hình thức đều có những hạn chế và lợi ích khác nhau. Ảnh: SITN Harvard.
HLW thì lại có thêm một số vấn đề. Đầu tiên, vì phần lớn nó ở trạng thái lỏng, và bất kỳ lỗ nào trong thùng chứa đều sẽ khiến chất lỏng phóng xạ bị rò rỉ. Cần có một cách khác để cố định nó, và phải là một cách làm có thể tin cậy được trong hàng ngàn năm nếu chất thải vẫn còn có tính phóng xạ.
Vật liệu bê tông rất dễ bị phong hóa qua các quãng thời gian dài này. Thay vào đó, chất thải được trộn trong lò nung với thủy tinh nghiền nát, tạo ra thủy tinh nóng chảy được pha trộn HLW. Sau đó, chất này được kết tinh trong các thùng lớn, giữ cho các hạt phóng xạ lơ lửng trong thủy tinh. Quá trình này, được gọi là thủy tinh hóa, khiến cho chất thải này khó có khả năng gây ô nhiễm bất cứ thứ gì.
Chất thải ở mức độ trung bình và cao tạo ra nhiệt và mức độ phóng xạ cao hơn. Hầu hết các nước đều có kế hoạch sử dụng phương pháp xử lý địa chất sâu. Đá và đất đóng vai trò như một rào cản đối với bức xạ. Trước đó, chất thải mức độ cao HLW được hòa trộn vào trong thủy tinh và lưu trữ tới 50 năm để nhiệt tiêu tan.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải giải quyết vấn đề sản sinh nhiệt của chất thải. Giải pháp ở đây là ngâm các thùng trong các ao chứa, bể chứa nước bằng bê tông sâu trong ít nhất 5 năm. Sau đó, chúng được chuyển đến nơi bảo quản khô ráo, được làm mát bằng không khí. Do thời gian bán rã dài của một số đồng vị phóng xạ trong chất thải, chúng thường được bỏ đó tới 50 năm trước khi đem đi xử lý chôn lấp.
Phương pháp xử lý cuối cùng được hầu hết các quốc gia tán đồng đối với HLW và ILW là chôn lấp sâu trong tầng địa chất. Việc này liên quan đến việc đặt chất thải ở sâu từ vài trăm mét đến vài cây số dưới lòng đất, sử dụng chính đất đá làm rào cản bức xạ.
Các địa điểm chôn lấp chất thải hạt nhân tại Hoa Kỳ. Ảnh: Wikipedia.
Các kho khai thác được sử dụng rộng rãi nhất. Đây là những đường hầm và hang động dưới lòng đất có thể đặt các thùng container. Sau đó, chúng được bao quanh bởi đá và đất để hoạt động như một lớp đệm bổ sung ngăn cách sự bức xạ. Những hang động này được đào xuống trên đất liền hoặc gần đó ở vùng nước nông, ở có nơi có loại đá đạt độ ổn định thích hợp, chẳng hạn như đá granit. Dòng nước ngầm thấp giúp giảm thiểu các vấn đề ô nhiễm. Chất thải cũng có thể được thu hồi nếu việc làm này xét thấy là cần thiết.
Địa điểm kho khai thác lưu giữ KBS-3 của Thụy Điển, tọa lạc ở Östhammar, bên cạnh Nhà máy điện hạt nhân Forsmark, dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm 2023, sử dụng các thùng chứa bằng đồng để đựng nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Các mỏ đồng bản địa đã chứng tỏ rằng đồng có xu hướng không thay đổi nhiều khi để lại trong nền đá, ở những khu vực có dòng nước ngầm thấp. Địa điểm KBS-3 còn sử dụng đất sét bentonite, có tác dụng như một hàng rào nước ngầm và lớp ngăn bức xạ hiệu quả. Điều này có nghĩa là khu vực này sẽ chỉ rò rỉ một lượng phóng xạ rất nhỏ và không có chất thải thực sự.
Phương pháp KBS-3 của Thụy Điển bao gồm việc đóng gói nhiên liệu đã qua sử dụng trong các thùng chứa bằng đồng, sau đó đặt chúng, được bao quanh bởi lớp đệm bằng đất sét bentonite, vào các lỗ lắng đọng trong hệ thống đường hầm ở độ sâu từ 400 đến 700 m trong nền đá. Ảnh: Research Gate.
Một giải pháp xử lý chất thải hạt nhân khác là sử dụng các lỗ khoan sâu. Những lỗ khoan này được khoan tới độ sâu 5,000 mét vào tầng đá nền (basement rock). Độ sâu 2,000 mét dưới đáy được sử dụng để chứa chất thải và phần còn lại được bịt kín bằng xi măng, đất sét bentonite hoặc các vật liệu khác tương tự.
Các lỗ khoan có thể được khoan vào cả đá kết tinh và đá trầm tích trên đất liền, cũng như được khoan ngoài khơi, vì vậy chúng giúp mở rộng sự đa dạng của các địa điểm có thể được dùng để xử lý chất thải. Tuy nhiên, chất thải sẽ không thể thu hồi được nên phương án này đã bị nhiều nước loại trừ.
Miêu tả tổng quát về vòng đời của chất thải hạt nhân: Các nguyên tố phóng xạ (1) bọc trong thanh nhiên liệu bị phân tách thành các nguyên tố nhỏ hơn (2) bằng các phản ứng năng lượng cao. Những phản ứng này giải phóng năng lượng dưới dạng nhiệt (3) và cũng tạo ra các hạt tự do. Trong lò phản ứng hạt nhân, lượng nhiệt này chuyển đổi nước thành hơi nước, làm quay tua-bin để tạo ra điện (4). Vào cuối chu kỳ của nó, các thanh nhiên liệu hạt nhân được làm nguội trong bể chứa nước trong vài năm (5), và sau đó có thể được xử lý trong thùng chứa khô ráo (6). Ảnh: SITN Harvard.
Ưu thế của năng lượng hạt nhân
Với vấn đề chất thải phóng xạ đang đặt ra những thách thức như hiện nay, thì liệu năng lượng hạt nhân có thực sự là câu trả lời cho cuộc mưu cầu các nguồn năng lượng thay thế của chúng ta? Nhiều người ủng hộ các nguồn năng lượng tái tạo và khuyên nhủ chúng ta nên tránh sử dụng năng lượng hạt nhân. Nhưng năng lượng tái tạo đòi hỏi một lượng lớn không gian đất đai. Một lò phản ứng hạt nhân sản xuất 1,800 megawatt điện chỉ chiếm có 4.45 km vuông không gian. Còn một trang trại năng lượng mặt trời thông thường sẽ chiếm gần 54 km vuông để tạo ra sản lượng điện tương tự, đó là một sự chênh lệch gấp 12 lần.
Biển cảnh báo ở một địa điểm chôn lấp chất thải hạt nhân. Ảnh: Geneva Solutions.
Rõ ràng có điều gì không ổn lắm ở đây, ai cũng muốn một nguồn năng lượng thân thiện với môi trường như mặt trời hay hydro (đáng buồn thay, hơi nước là chất thải từ việc đốt cháy hydro cũng được coi là khí nhà kính), nhưng những bất lợi của nó khiến con người phải suy nghĩ. Không phải bất cứ phong trào môi trường xanh-sạch-đẹp nào cũng đều có lý, điều quan trọng là những việc các phong trào ấy kêu gọi khả thi tới đâu. Chẳng hạn như lời kêu gọi sử dụng xe điện, vì đó là tương lai; quả thực xe điện sẽ là tương lai nhưng trước khi đi tới đó người ta phải giải quyết nhiều rất nhiều vấn đề liên quan tới nó trước khi có thể sử dụng thoải mái như xe xăng hiện nay. Vì vậy các loại xe lai đã ra đời để lấp khoảng trống này.
Cuộc biểu tình chống hạt nhân gần trung tâm xử lý chất thải hạt nhân ở Gorleben, bang Hạ Saxony ở miền bắc nước Đức. Ảnh: Wikipedia.
Năng lượng tái tạo rõ ràng là một phần của giải pháp, nhưng thật khó để hiểu nổi xem bằng cách nào chúng ta có thể chuyển dịch khỏi nhiên liệu hóa thạch, trong thời gian ngắn cần thiết để ngăn chặn thảm họa khí hậu, bằng cách sử dụng duy nhất mỗi năng lượng tái tạo. Đồng thời, chúng ta đã thiết lập các phương pháp xử lý chất thải hạt nhân có rủi ro thấp và khối lượng thực tế của nó thấp. Người ta ước tính rằng khối lượng chất thải hạt nhân hiện nay ở Anh và lượng chất thải này sẽ được sản xuất ở nước này trong 100 năm tới sẽ chỉ lấp đầy một khu vực có diện tích bằng sân vận động Wembley. Thật sự không đáng kể và không đáng để cảnh báo khẩn thiết như một thảm họa, chúng ta sẽ không hề bị chôn vùi trong đống chất thải hạt nhân như những câu chuyện được vẽ ra. Hoặc như sự kiện Nhật Bản xả nước thải hạt nhân đã qua xử lý ra biển, vụ việc chỉ gây sự chú ý trong thời gian và đến lúc này dường như người ta không còn quan tâm nữa, bất kể lượng nước đó có thực sự gây rủi ro hay không.
Mặc dù vậy, số lượng lò phản ứng hạt nhân trên toàn thế giới đã chững lại kể từ giữa những năm 1990. Trong khi các nhà máy mới đang được xây dựng ở Trung Quốc và Đông Âu, thì các nước như Pháp và Đức có kế hoạch loại bỏ hoàn toàn năng lượng hạt nhân. Liệu thái độ này có thay đổi trong những năm tới khi việc phải cố gắng tránh xa nhiên liệu hóa thạch ngày càng cấp bách?